Mảnh cộng hay lá cầm, cây bìm bịp, cây xương khỉ, ưu độn thảo (tên khoa học: Clinacanthus nutans) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Nicolaas Laurens Burman mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1768 dưới danh pháp Justicia nutans. Năm 1894, Gustav Lindau chuyển nó sang chi Clinacanthus
Các nghiên cứu về hoá thực vật cho thấy C. nutans chứa một loạt các hợp chất hoạt tính sinh học. Các hợp chất quan trọng là stigmasterol (1), lupeol (2), b – sitosterol (3), belutin và myricyl alcohol. Ngoài ra có 6 flavon C – glycosyl đã biết được phân lập từ chiết xuất metanol của cây xương khỉ này ở Thái Lan. Chúng là vitexin (4), isovitexin(5), schaftoside (6), isomollupentin 7- O – b-glucopyranoside (7), orientin (8) và isoorientin (9).
Các tác dụng dược lý- Hoạt động chống viêm
- Hoạt động kháng virus, kháng khuẩn
- Hoạt động chống oxy hóa
Sử dụng trong Y học cổ truyềnTheo quan điểm thực vật học cây Xương khỉ (C. nutans Burm. F.) Lindau và cây bìm bịp (Clinacanthus siamensis Bremek) là hai loài khác nhau và thường bị nhầm lẫn do hình thái giống nhau. Hai loài này có một số đặc tính dược lý, khía cạnh phân tử và con đường chống virus Herpes simplex (HSV) loại 1 và loại 2 khác nhau.
Ở các nước Đông Nam Á, cây Xương khỉ được công nhận là có tác dụng chống nọc độc rắn. Các nghiên cứu hiện đại chứng minh, tác dụng này có được do đặc tính chống ly giải tế bào của Xương khỉ. Bên cạnh đó, các thầy thuốc Y học cổ truyền còn sử dụng để điều trị một số bệnh như mề đay, bọ cạp và côn trùng cắn. Ngoài ra, Xương khỉ còn được biết đến với công dụng hạ sốt và lợi tiểu.
Các nghiên cứu dược lý đã chứng minh rằng cây này có một loạt các hoạt tính kháng khuẩn. Đặc biệt là điều trị mụn rộp sinh dục và các tổn thương do virus varicella-zoster (VZV) được chẩn đoán ở những người bị suy giảm miễn dịch.
Ở Trung Quốc, Xương khỉ được dùng để điều trị tình trạng viêm như tụ máu, đụng dập, bong gân chấn thương và bệnh thấp khớp. Những bác sĩ Y học cổ truyền ở Indonesia và Thái Lan điều chế thuốc từ Xương khỉ để điều trị bệnh kiết lỵ.
Kinh nghiệm sử dụngỞ Malaysia, lá tươi được đun sôi với nước và uống như trà thảo mộc.
Ở Thái Lan, dịch chiết cồn của lá tươi được dùng ngoài để điều trị mẩn ngứa ngoài da, vết rắn và côn trùng cắn. Một tác dụng khác được nghiên cứu gần đây là HSV và các tổn thương do VZV. Đôi khi lá được dùng làm nguyên liệu thô hoặc trộn với nước táo, mía hoặc trà xanh và cung cấp dưới dạng thức uống tươi.
Ở Indonesia, đun sôi một nắm lá tươi trong năm ly nước cho đến khi còn khoảng 3 ly được sử dụng trong mề đay mạn. Đun sôi 7 – 21 lá tươi trong hai ly nước cho đến khi nước cạn còn một ly. Dùng hai lần mỗi ngày trong điều trị tiểu đường.
Độc tính của câyNăm 2013, Ping và cộng sự nghiên cứu độc tính cấp và bán trường diễn của chiết xuất lá cây Xương khỉ. Chuột cái Sprague Dawley được cho uống chiết xuất trên với liều lượng 300 mg/kg, 600 mg/kg và 900 mg/kg mỗi ngày trong 14 ngày. Kết quả không cho thấy tác dụng độc đối với gan và thận.Ngoài ra, có nghiên cứu báo cáo rằng chiết xuất ethanolic của lá Xương khỉ ở liều cao nhất 1,3 g/kg dùng đường uống, tiêm dưới da hoặc trong màng bụng cũng không tạo ra bất kỳ dấu hiệu nhiễm độc cấp tính nào ở chuột.
Xương khỉ đã được sử dụng rộng rãi làm thuốc cổ truyền ở một số quốc gia Đông Nam Á. Flavonoid là các hợp chất hoạt tính sinh học chính của Xương khỉ. Toàn cây Xương khỉ được sử dụng trong điều trị và ngăn ngừa một số bệnh. Đặc biệt là đối với nhiễm virus, ung thư và viêm da do côn trùng cắn. Hơn nữa, Xương khỉ là một loại cây ít độc tính, chưa có báo cáo về tác dụng không mong muốn trong quá trình điều trị bệnh.